Đô thị hóa đã biến 7,7 triệu nông dân thành thị dân

84
Phát triển đô thị giai đoạn 2021 - 2030, định hướng năm 2050 theo hướng bền vững, không khép kín.
Phát triển đô thị giai đoạn 2021 - 2030, định hướng năm 2050 theo hướng bền vững, không khép kín.
Mục lục

    Tính đến tháng 12/2020, cả nước có 862 đô thị, bao gồm 2 đô thị đặc biệt, 23 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 90 đô thị loại IV và 668 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 30,5% năm 2010 lên 39,3% năm 2020.

    ĐÔ THỊ HOÁ  ĐÃ “BIẾN” 7,7 TRIỆU NÔNG DÂN THÀNH THỊ DÂN

    Theo dự thảo Báo cáo quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tính đến cuối năm 2020, tổng diện tích đất đô thị trên cả nước đạt 2.028.070ha, chiếm 6,12% tổng diện tích tự nhiên.

    Các địa phương có diện tích đất đô thị lớn, gồm:

    Quảng Ninh 119.660haGia Lai 47.770ha
    Thanh Hóa 84.250haCần Thơ 47.250ha
    Lâm Đồng 80.900haĐồng Nai 45.640ha
    Bình Dương 68.040haHà Nội 43.020ha
    TP.HCM 59.950haĐăk Lắk 40.750ha
    Quảng Nam 57.550haHải Dương 39.470ha
    Thừa Thiên Huế 54.370ha

    Bình quân đất đô thị của cả nước là 530m2/người đến cuối năm 2020, nhưng có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng và các địa phương trong cả nước.

    Cụ thể, diện tích đất đô thị bình quân đầu người tại khu vực Tây Nguyên rất cao, lên tới 1.137m2/người, Trung du và miền núi phía Bắc 1.136m2/người, Đồng bằng sông Cửu Long 720m2/người, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 689m2/người, trong khi đó con số này tại Đồng bằng sông HồngĐông Nam Bộ khá thấp, tương ứng lần lượt là 422m2/người và 197m2/người.


    Một số địa phương có tốc độ đô thị hoá cao, đóng góp cho tăng trưởng lớn như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Ninh Thuận, An Giang, Kiên Giang.

    Tuy nhiên, đất đô thị gia tăng nhanh chóng phần lớn là do các quyết định hành chính, nhanh hơn so với yêu cầu của phát triển kinh tế.

    Tốc độ đô thị hoá nhanh khiến cho số dân thành thị cũng tăng nhanh chóng khi đạt 34 triệu người vào cuối năm 2020, chiếm khoảng 35% tổng dân số cả nước.

    Tỷ lệ tăng dân số bình quân khu vực thành thị giai đoạn 2011 – 2020 là 2,64%/năm, gấp hơn 02 lần tỷ lệ tăng dân số của cả nước và gấp 06 lần tỷ lệ tăng dân số khu vực nông thôn.

    Trong đó, yếu tố di cư góp phần làm dân số khu vực thành thị tăng thêm 1,3 triệu người, chiếm 3,8% dân số thành thị.

    Đặc biệt, nhờ có sự “chuyển mình” từ xã thành phường, thị trấn của nhiều địa phương góp phần chuyển 7,7 triệu người đang là cư dân nông thôn thành cư dân thành thị, tương đương gần 22,6% dân số thành thị của cả nước năm 2020.

    Tuy nhiên, chất lượng phát triển đô thị chưa cao, hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ. Thiếu kết nối đô thị và nông thôn, giữa trung tâm và các khu vực mở rộng ven đô. Kết nối giữa các đô thị với chuỗi cung ứng hàng hoá, dịch vụ, logistics còn yếu.

    Năng lực, trình độ quản lý thấp, chậm đổi mới, còn tình trạng ùn tắc giao thông, úng ngập, ô nhiễm môi trường, nhiều nơi thiếu, quá tải dịch vụ xã hội…

    Nguồn dự thảo Báo cáo quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
    Nguồn dự thảo Báo cáo quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

    PHÁT TRIỂN MẠNH CÁC ĐÔ THỊ VỆ TINH

    Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phát triển hệ thống đô thị bền vững, không khép kín theo ranh giới hành chính, gắn kết chặt chẽ với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng…

    Phát triển mạng lưới đô thị trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế về địa lý, kinh tế, xã hội, văn hóa, đồng thời hỗ trợ phát triển vùng và địa phương.

    Phát triển mạnh các đô thị vệ tinh, hạn chế xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn.

    Tăng cường kết nối giữa các đô thị theo hành lang kinh tế, khu kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế quốc gia (cửa khẩu và ven biển), liên kết với các nước trong khu vực ASEAN, Trung Quốc, khu vực tiểu vùng sông Mê-kông mở rộng (GMS), vùng Đông Bắc Á… để bảo đảm phát triển đô thị năng động, hiệu quả.

    Mạng lưới đô thị quốc gia được phân theo các cấp, bao gồm:

    • Các đô thị trung tâm cấp quốc gia;
    • Các đô thị trung tâm cấp vùng liên tỉnh;
    • Các đô thị trung tâm cấp tỉnh;
    • Các đô thị trung tâm cấp huyện;
    • Các đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn (gọi tắt là đô thị trung tâm cấp khu vực)
    • Các đô thị mới.

    Tái cấu trúc phát triển các vùng đô thị hóa cơ bản trên cơ sở 06 vùng kinh tế – xã hội quốc gia.

    Cụ thể, các cực tăng trưởng chủ đạo được bố trí tại 04 vùng kinh tế trọng điểm:

    • Miền Bắc (vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ) với thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng là đô thị động lực chính.
    • Miền Trung (vùng kinh tế trọng điểm miền Trung) với thành phố Đà Nẵng, thành phố Huế là đô thị động lực chính.
    • Miền Nam (vùng kinh tế trọng điểm phía Nam), với TP.HCM là đô thị động lực chính và vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Cần Thơ là đô thị động lực chính.

    Các cực tăng trưởng hỗ trợ (thứ cấp) được bố trí tại các vùng. Cụ thể:

    • Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có các đô thị động lực là các thành phố Điện Biên, Việt Trì, Thái Nguyên, Hòa Bình.
    • Vùng Đồng bằng sông Hồng có thành phố Nam Định;
    • Vùng Bắc Trung Bộ có thành phố Vinh, đô thị Con Cuông, Thái Hoà.
    • Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ có thành phố Quy Nhơn, Nha Trang, khu vực vịnh Vân Phong – Khánh Hoà;
    • Vùng Tây Nguyên có TP. Buôn Ma Thuột.
    • Vùng Đông Nam Bộ có TP. Biên Hòa, Vũng Tàu

    Các cực tăng trưởng hỗ trợ gắn với các khu đô thị kinh tế cửa khẩu quốc gia, quốc tế vùng biên giới: Móng Cái (Quảng Ninh); Hữu Nghị, Đồng Đăng (Lạng Sơn); Lào Cai (Lào Cai), Lao Bảo (Quảng Trị); Mộc Bài (Tây Ninh)…

    Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hoá của cả nước đạt khoảng 53,2%; phấn đấu đạt 30m2 sàn nhà ở bình quân đầu người.

    Tổng diện tích đất đô thị của cả nước tăng thêm tăng 925.780ha, đạt 2.953.850ha. Trong đó, có 251.840ha đất ở tại đô thị (chiếm 8,52% đất đô thị), bình quân đất ở tại đô thị đạt khoảng 45,39m2/người.

    Diện tích đất ở tại đô thị tăng 62.690ha so với năm 2020, trong đó:

    • Trung du và miền núi phía Bắc có 29.340ha (tăng 9.790ha);
    • Đồng bằng sông Hồng có 51.850ha (tăng 14.100ha);
    • Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 56.280ha (tăng 13.210ha);
    • Tây Nguyên có 19.350ha (tăng 4.690ha);
    • Đông Nam Bộ có 57.360ha, (tăng 10.410ha)
    • Đồng bằng sông Cửu Long có 37.650ha (tăng 10.480ha).

    Theo Vneconomy

    Theo dõi nhận tin mới và gửi yêu cầu hỗ trợ
    TIKTOK | ZALO | TELEGRAM
    | FACEBOOK
    Đóng góp nội dung, tài liệu liên hệ Zalo 0813.830.830 và nếu thấy nội dung này hữu ích xin hãy chia sẻ.

    Ngân Hàng cho vay tiêu dùng, bất động sản, phát hành thẻ 100 triệu tại TP Hà Nội
    LIÊN HỆ MR. QUANG 0934.569.938 (ZALO 247)

    BÌNH LUẬN

    Vui lòng nhập bình luận của bạn
    Vui lòng nhập tên của bạn ở đây