Thầy Thích Nhất Hạnh thế danh Nguyễn Đình Lang (1926 – 2022), thầy là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu và một nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng. Thầy là có đóng góp lớn trong cộng đồng Phật tử và xã hội Việt Nam và cũng được biết đến như là người sáng lập tông phái Truyền thống Làng Mai, một nguồn cảm hứng chính trong lịch sử Phật giáo và người đầu tiên đề xuất khái niệm Phật giáo dấn thân.
Tầm ảnh hưởng của Thầy Thích Nhất Hạnh trong việc phát triển Phật giáo ở phương Tây là không thể phủ nhận. Thầy được một số tờ báo đánh giá là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt-lại Lạt-ma.
Với hơn 100 cuốn sách đã xuất bản, trong đó có hơn 70 cuốn được viết bằng tiếng Anh, Thầy Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ tri thức và sự bảo trợ của mình với độc giả trên khắp thế giới. Thầy cũng đóng góp vào các tạp chí như Mindfulness Bell của Dòng tu Tiếp Hiện, nơi thầy chia sẻ những bài giảng và nhận định sâu sắc về tâm linh và hòa bình.
Tiểu sử thầy Thích Nhất Hạnh
Thích Nhất Hạnh, ban đầu được đặt tên Nguyễn Đình Lang, sau đổi thành Nguyễn Xuân Bảo, sinh vào ngày 10 tháng 11 năm 1926, tại Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Thầy là con thứ 15 trong dòng họ Nguyễn Đình, mà tổ tiên của ông là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, tác giả của Truyện Lục Vân Tiên. Cha của thầy, Nguyễn Đình Phúc, người làng Thành Trung, nay thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, là một quan chức trong triều đình nhà Nguyễn thời Pháp thuộc, đảm nhận trách nhiệm về công việc di dân và việc lập ấp.
Mẹ của thầy, bà Trần Thị Dĩ, xuất thân từ làng Hà Trung, tỉnh Quảng Trị. Thích Nhất Hạnh là đứa con út trong tổng số 6 anh chị em. Thầy có ba anh trai và một em gái, cùng một em trai út sinh sau một thời gian ngắn. Cho đến khi ông năm tuổi, thầy đã sống cùng với gia đình mở rộng của mình, bao gồm các dì chú và anh em họ, tại nhà của ông bà nội.
Khi Thích Nhất Hạnh lên 4 tuổi, cha thầy được phái đến vùng miền núi ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa để giám sát việc khai phá rừng và làm đất canh tác cho nông dân nghèo. Một năm sau đó, cả gia đình thầy chuyển đến huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa để sống cùng với cha. Thầy học tiểu học tại đây và trong các kỳ nghỉ hè, thầy tham gia các lớp dạy tư tại nhà. Thầy được đăng ký đi học với tên mà cha mẹ đã đặt cho là Nguyễn Đình Lang.
Theo chính thầy kể, khi thầy được khoảng 7 hoặc 8 tuổi, thầy cảm thấy yên bình khi nhìn thấy một bức tranh của Đức Phật ngồi thiền trên một bãi cỏ. Trong một chuyến đi du lịch của trường học, khi thấy những người tu hành trên núi, ngồi thiền một cách yên bình giống như Đức Phật đã làm, thầy mong ước được trở thành như họ. Ở tuổi 12, thầy đã nói ra nguyện vọng trở thành một nhà sư và được cha mẹ chấp thuận.
Quá trình tu tập, hoạt động và tầm ảnh hưởng
Vào năm 16 tuổi, Thích Nhất Hạnh bắt đầu cuộc hành trình xuất gia tại chùa Từ Hiếu, gần thành phố Huế. Tại đây, thầy nhận lãnh giáo pháp từ Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật, được biết đến với pháp danh Trừng Quang, pháp tự Phùng Xuân và pháp hiệu Nhất Hạnh, theo truyền thống thiền phái Lâm Tế, dòng Liễu Quán.
Trải qua ba năm tu tập tại chùa Từ Hiếu, Thích Nhất Hạnh học vị pháp sư vào năm 1949, sau khi được công nhận là một thiền sư và lãnh đạo tinh thần của chùa cũng như các tu viện khác. Sau đó, thầy tham gia Học viện Phật giáo Báo Quốc nhưng rời khỏi sau khi nhận ra sự thiếu sót về kiến thức về ý thức luận, văn học và ngoại ngữ. Năm 1951, ông tới Sài Gòn để tu tập tại chùa Ấn Quang.
Thích Nhất Hạnh kết hợp kiến thức của mình từ nhiều trường phái thiền khác nhau, cùng với truyền thống Phật giáo và những phát kiến của tâm lý học phương Tây, để phát triển một cách tiếp cận hiện đại đối với thiền. Trở lại Huế vào năm 1955, thầy tham gia vào tờ báo Phật Giáo Việt Nam như một biên tập viên, làm việc này trong hai năm trước khi bị đình chỉ do các quan điểm của thầy không được chấp nhận bởi một số nhà sư cao cấp. Thầy tin rằng việc đình chỉ tờ báo là do ý kiến của mình về việc cần thiết phải thống nhất quan điểm và tư tưởng Phật giáo tại miền Nam Việt Nam.
Năm 1956, trong thời gian thầy đang dạy pháp tại Đà Lạt, Thích Nhất Hạnh bị loại khỏi danh sách các nhà Sư thuộc chùa Ấn Quang. Đến cuối năm 1957, thầy quyết định nhập thất và thành lập một tăng đoàn mang tên Phương Bôi tại rừng Đại Lao, gần Đà Lạt. Trong khoảng thời gian này, thầy còn giảng dạy tại một trường cấp ba gần đó, tiếp tục viết sách và khởi xướng các ý tưởng về Nhân sinh và Phật giáo thống nhất.
Từ 1959 đến 1961, Thích Nhất Hạnh tổ chức nhiều khóa tu ngắn về Phật giáo tại nhiều ngôi chùa tại Sài Gòn, bao gồm cả chùa Xá Lợi. Tuy nhiên, thầy đối diện với sự phản đối tại Việt Nam. Vì vậy, thầy chấp nhận học bổng Fulbright vào năm 1960 để nghiên cứu Tôn giáo tại Đại học Princeton, Hoa Kỳ vào năm 1961.
Năm 1962, thầy được chỉ định làm giảng viên về Phật giáo tại Đại học Columbia và đồng thời giảng dạy tại Đại học Cornell. Trong thời gian này, thầy tiếp tục nỗ lực học ngôn ngữ và trở nên thông thạo trong Anh, Pháp, Trung, Phạn và Pali.
Từ ngày 12 tháng 1 đến ngày 11 tháng 4 năm 2005, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam sau một chuỗi các đàm phán để được phép thuyết giảng. Thầy cũng đã xuất bản một số cuốn sách bằng tiếng Việt và cho phép 100 tăng ni và 90 thành viên khác của dòng tu theo ông đi khắp đất nước, bao gồm cả chuyến quay về ngôi chùa mà thầy xuất gia, chùa Từ Hiếu ở Huế.
Năm 2007, thầy cùng phái đoàn Phật giáo quốc tế thuộc tăng thân Làng Mai trở về Việt Nam với mục đích tổ chức các khóa tu và các buổi pháp thoại, gặp gỡ các tăng ni và phật tử ở ba miền. Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thầy tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại ba miền Việt Nam gọi là Đại trai Đàn Bình đẳng Chẩn tế cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, không phân biệt tôn giáo, chính trị, chủng tộc.
Trong vụ mâu thuẫn ở tu viện Bát Nhã, các tu sinh của Thiền sư tại tu viện đã bị quấy rối và đe dọa bằng vũ lực, tu viện bị phá hủy, cắt điện, nước, điện thoại và cô lập. Tuy nhiên, Thích Nhất Hạnh đã từ chối làm vụ việc thêm rắc rối và dạy các tu sinh nên kiểm soát cảm xúc của họ để mang lại sự thấu hiểu và tình yêu thương.
Ngày 29 tháng 8 năm 2017, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở lại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên thầy trở về kể từ năm 2008. Ngày 30 tháng 10 năm 2018, Thích Từ Đạo, Giám tự Tổ đình Từ Hiếu (TP Huế, Thừa Thiên Huế), thông báo rằng trong lần trở về Việt Nam này, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xin cư ngụ tại Tổ đình Từ Hiếu để tịnh dưỡng cho đến khi viên tịch.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viên tịch vào rạng sáng ngày 22 tháng 1 năm 2022. Sự ra đi của thầy đã gây ra niềm thương tiếc sâu sắc từ nhiều nhóm Phật tử cả trong và ngoài nước. Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã gửi lời chia buồn.
Tang lễ của thiền sư kéo dài trong 7 ngày, được thực hiện theo nghi thức tâm tang. Lễ trà tỳ (hỏa táng) diễn ra từ 9 giờ ngày 29 tháng 1 và kết thúc lúc 2 giờ ngày 30 tháng 1 tại Công viên vĩnh hằng, Vườn địa đàng Huế. Vào khoảng 6 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1, xá lợi của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được an vị tại Tổ đình Từ Hiếu, nơi thầy bắt đầu xuất gia và tu học cách đây 80 năm. Theo di nguyện của thiền sư, tro cốt của thầy sẽ được đặt tại đây và các trung tâm khác của Làng Mai trên khắp thế giới mà không cần xây bảo tháp đặt lọ tro.
Tổng hợp bởi Duan24h.net