Cụ Bùi Bằng Đoàn là ai? Tiểu sử, đời tư và sự nghiệp

63
Tiểu sử, đời tư và sự nghiệp cụ Bùi Bằng Đoàn
Tiểu sử, đời tư và sự nghiệp cụ Bùi Bằng Đoàn
Mục lục

    Bùi Bằng Đoàn (chữ Hán: 裴鵬摶) sinh năm 1889 và mất năm 1955, ông là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I (1946–1955).

    Tiểu sử Bùi Bằng Đoàn

    Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19 tháng 9 năm 1889 tại xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay thuộc thành phố Hà Nội) trong một gia đình truyền thống Nho học. Ông nội là Tiến sĩ Bùi Tuấn, hàm Thái tử Thiếu bảo, từng làm Giám khảo các kỳ thi Hương, giữ chức Tả Tham tri Bộ Binh kiêm Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh đánh dẹp giặc Ngô Côn. Cha là Bùi Tập từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa.

    Cha mẹ của ông đều qua đời sớm,và cả sáu anh em trong gia đình được người chú dượng là Dương Lâm (còn được biết đến là cụ Thiếu bảo Vân Đình, lúc đó đang làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc kỳ) đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán.

    Ở kỳ thi năm Bính Ngọ 1906, Bùi Bằng Phấn, Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn, cả ba anh em đã ứng thí và đạt kết quả. Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, trong khi Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn đều đỗ Cử nhân. Họ được biết đến với danh xưng “Hà đông tam bằng”.

    Sau này, Bùi Bằng Thuận còn đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1916, cùng với Bùi Bằng Phấn, và cả hai đã làm quan Nam triều và hưu trước năm 1945.


    Ông là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945)
    Ông là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945)

    Vợ của ông là bà Đoàn Thị Đức, người phụ nữ mạnh mẽ và hy sinh cho đấu tranh dân tộc. Ông và bà có tám người con gái và hai người con trai.

    Cuối năm 1948, Hồ Chủ tịch và Ban Bí thư quyết định đưa ông về quê nghỉ ngơi và điều trị bệnh tình. Khi ông gần đến nhà, anh ta phát hiện rằng quân đội Pháp đang thực hiện cuộc đàn áp ở Vân Đình, buộc ông phải lánh mặt.

    Trong khi đó, bà Đoàn Thị Đức, vợ ông, một mình ở nhà đang cố gắng giấu giếm tài liệu quan trọng, nhưng đã bị quân Pháp tấn công và bắn chết. Sự hi sinh đầy oan trái của bà không được biết đến cho đến năm 1955, khi ông Hồ Chủ tịch trở về thăm quê nhà và phát hiện ra vụ ám sát kinh hoàng này.

    Đường quan lộ và tham gia chính quyền cách mạng

    Bùi Bằng Đoàn thi vào trường Hậu Bổ tại Hà Nội vào năm 1907 và nhanh chóng trở thành một quan nhà nước có uy tín. Ông không chỉ thông thạo cả Pháp văn và Hán văn, mà còn nổi tiếng với phẩm chất đạo đức cao, tính thanh liêm, chính trực và sự chăm sóc tận tâm đối với nhân dân.

    Trong thời gian làm quan Nam triều, ông đảm nhận nhiều vị trí quan trọng như Tri huyện, Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), Án sát tỉnh Bắc Ninh, Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình và cuối cùng là Thượng thư bộ Hình của triều đình Huế trong nội các của Phạm Quỳnh vào năm 1933, hàm Thái tử Thiếu bảo.

    Làm quan, ông nổi tiếng với tư cách vị quan đức độ, thanh liêm và chính trực. Trên các công đường mà ông làm quan, luôn treo một bảng thông báo “không nhận quà biếu”. Ông cũng áp dụng nguyên tắc nghiêm túc về việc không nhận quà, và nếu nhận lỡ, ông đều yêu cầu mang đi trả lại.

    Khi làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định), ông đã đề xuất và thành công trong việc đắp đê Bạch Long để ngăn chặn nước mặn, tạo ra một vùng đất màu mỡ cho việc canh tác lúa và dâu. Đối với thành tựu này, ông được cư dân địa phương tôn thờ như “phụ mẫu chi dân” trẻ tuổi ngay từ thời điểm nhậm chức.

    Năm 1925, Chính phủ Nam triều đã phản ánh vấn đề nghiêm trọng về tình trạng bóc lột dã man của phu đồn điền ở miền Nam qua báo chí. Để kiểm tra và đối phó với tình hình này, Chính phủ quyết định gửi Bùi Bằng Đoàn vào Nam bộ để thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Sau quá trình thanh tra kỹ lưỡng, ông Bùi Bằng Đoàn đã biên soạn một bản báo cáo chi tiết, dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp, đặc điểm chủ yếu của đoạn văn là nhấn mạnh những vấn đề không hợp lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Các kiến nghị trong báo cáo đã được chấp nhận, giảm nhẹ những chế độ khắc nghiệt đối với công nhân đồn điền cao su.

    Năm 1925, mặc dù đang làm tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định), Bùi Bằng Đoàn vẫn được mời lên Hà Nội để làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực và lòng trung thực, ông đã dịch rõ ràng và bênh vực lẽ phải, trình bày lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu. Kết quả là tòa án đã giảm hình phạt từ án chung thân xuống thành “an trí ở Huế”.

    Đầu năm 1933, ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Ninh Bình, sau đó tham gia Nội các khi Phạm Quỳnh tổ chức. Ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Hình và trong 12 năm ở Huế, ông đã giám sát việc xử kiện tại các tỉnh Trung Kỳ, soạn thảo luật lệ bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và chuyển ngữ sang chữ Hán.

    Tháng 3 năm 1945, ông ký tuyên bố độc lập của Đế quốc Việt Nam sau khi Nhật đảo chính Pháp. Là một trong sáu thượng thư ký tên, ông tham gia vào quá trình giải tán cơ mật viện để chuẩn bị cho thành lập Nội các mới. Bùi Bằng Đoàn được giao nhiệm vụ giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội.

    Trước “đêm trước” của cách mạng, ông nhận lời mời của Việt Minh và trở thành Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị. Ngày 17 tháng 11 năm 1945, ông gia nhập Ban cố vấn Chủ tịch nước và trở thành thành viên Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đất nước theo mời của Hồ Chủ tịch.

    Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông trúng cử làm đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại tỉnh Hà Đông và được bổ nhiệm làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, tương đương với chức Tổng Thanh tra Chính phủ. Ông cũng tham gia vào Ban Thường trực Quốc hội và đồng sáng lập Hội liên hiệp quốc dân ngày 2 tháng 3 năm 1946.

    Ngày 8 tháng 11 năm 1946, ông được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội, thay thế ông Nguyễn Văn Tố. Trong những năm 1947 và 1948, ông hoạt động chủ yếu ở chiến khu Việt Bắc.

    Cuối năm 1948, ông mắc bệnh và Hồ Chủ tịch đã chỉ thị tổ chức đưa ông về Liên khu 3 để chữa bệnh. Từ tháng 10 năm 1948, ông làm Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội tại Việt Bắc.

    Sau khi hòa bình được lập lại, ông trở về Hà Nội để dưỡng bệnh và ngày 13 tháng 4 năm 1955, ông qua đời tại Hà Nội.

    Tổng hợp bởi Duan24h.net

    BÌNH LUẬN

    Vui lòng nhập bình luận của bạn
    Vui lòng nhập tên của bạn ở đây